Căn cứ vào hình thức thanh toán lợi nhuận, người ta chia ra thành các kỳ hạn:
Thanh toán thu nhập hàng tháng, như chứng chỉ tiền gởi (CDs) hoặc thanh toán
hàng quý đối với một số loại chứng chỉ tiền gởi và trái phiếu do chính phủ phát
hành, hoặc thanh toán nửa năm một lần như công khố phiếu và trái phiếu do chính
quyền địa phương phát hành, các trái phiêu hoặc cố phiếu ưu đãi, hoặc thanh toán
một năm một lần như các trái phiếu châu Âu.
Cũng có những chứng khoán chẳng bao giờ có kỳ hạn thanh toán thu
nhập rõ ràng nào cả. Lợi tức được hưởng được cộng dồn vào vốn gốc, do vậy được
bán theo hình thức chiết khấu, như công khô” phiếu, thương phiếu, chấp hối
phiếu (banker’s acceptance), các trái phiếu không có thưởng. Một sô” chứng
khoán thanh toán lợi tức cố định như trái phiếu có lợi tức cố định, các trái
phiếu thu nhập, cổ phiếu ưu đãi, trong khi đó lại có những chứng khoán có mức
lợi tức biến động thanh toán tùy thuộc vào lãi suất thị trường, như chứng chỉ
tiền gởi (CDs), các chứng khoán bảo đảm thanh toán theo thu nhập, cổ phiếu
thường. Đối với các chứng khoán bảo đảm theo danh mục, mức thanh toán lợi tức
phụ thuộc vào chỉ số giá bán lẻ. Trong khi đó các cổ phiếu thường, cổ tức phụ
thuộc vào những yếu tố như khả năng sinh lợi của công ty, lợi nhuận giữ lại và
kê” hoạch đầu tư mới của công ty.
-
Căn cứ vào khả năng dự đoán giá trị vốn, lại tạo ra một phương pháp khác để
phân loại chứng khoán, có nghĩa là liệu chứng khoán có thể đem bán trên thị
trường hay không. Đối với các chứng khoán không bán được như các chứng khoán
tiền gởi thì giá trị vốn gốc là luôn xác định, ít ra là theo giá trị danh
nghĩa. Đối với một sô” chứng khoán có thể bán được, giá trị vốn gốc hoàn toàn
mang tính dự đoán và cũng chỉ có thể dự đoán được tại các thời điểm xác định mà
thôi. Ví dụ, đối với các trái phiếu do chính phủ phát hành có ghi ngày thanh
toán cụ thể, thì giá trị vốn được biết một cách chắc chắn chỉ vào ngày đến hạn,
còn trong các thời điểm khác là không xác định được. Dù sao giá trị cuối cùng
đã biết của những chứng khoán như vậy cũng sẽ giúp phần nào việc xác định giá
trị vốn gốc vào thời điểm trước khi đáo hạn. Một tinh huống tương tự cũng diễn
ra đôi với cóng khố phiếu, giá trị của nó sẽ tăng giữa kỳ phát hành và hoan
trả, và lượng gia tăng này có thể dự báo một cách hợp lý, thể hiện thành số
tiền lãi lũy kế được hưởng.
Đối với các chứng khoán khác, giá trị vốn không hao giờ có thể dự đoán
chính xác một cách tuyệt đối, tại một thời điểm tương lai bất kỳ, và nếu có
điều kiện thi việc dự đoán giá trị vốn của chúng cũng hết sức khó khán, ví dụ
như cổ phiếu thường. Các cổ phiếu thường không có ranh giới lý thuyết cho giá
trị vốn của chúng.
Đọc thêm tại: