Một ví dụ về tính rủi ro là tính bấp bênh về thu nhập có được từ một
danh mục vốn đầu tư trong trường hợp đầu tư vào cổ phiếu thường. Thu nhập sẽ
tăng khi mà công ty phát hành hoạt động hiệu quả, và giảm đi hoặc thậm chí mất
sạch, khi công ty phát hành bị phá sản.
Để hạn chế rủi ro loại này bằng việc đa dạng hóa hoặc chia phần rủi
ro, thông qua việc thiết kế các danh mục vốn đầu tư cổ phiếu, sao cho có thể
lợi dụng được việc bù trừ lẫn nhau các rủi ro thuộc danh mục đầu tư cổ phiếu,
và từ đó giảm bớt tổng rủi ro. Nhưng với một danh mục vốn đầu tư về cổ phiếu đã
được đa dạng hóa đến mức có thể đạt được hiệu quả, thì cũng đòi hỏi phải có một
lượng tài sản tương đương đủ lớn và chi phí giao dịch cao do phải mua đi bán
lại các tài sản ấy và do vậy, cũng khó tìm được những ai chấp nhận chi phí
chuyển dịch tài sản cao này để họ có thể hùn vốn.
Ngược lại, trong trường hợp quy mô của các định chế tài chính trung gian
đủ lớn, đến lượt mình, lại tạo thuận lợi cho việc hùn vốn để cùng chia phần rủi
ro, vì với quy mô lớn, chi phí giao dịch sẽ giảm đi nhiều, so với định chế tài
chính trung gian có quy mô nhỏ, hoặc với một cá nhân, vì chi phí giao dịch tỷ
lệ nghịch với khối lượng giao dịch, và nếu là chi phí bất biến thì nó được phán
chia ra cho toàn bộ các giao dịch cùng chịu.
Tuy nhiên, không phải mọi rủi ro đều có thể né tránh bằng cách đa dạng
hóa danh mục vốn đầu tư, kể cả bằng cách phân tán rủi ro hoặc chung phần gánh
chịu rủi ro. Có những rủi ro luôn có thể phát sinh và chỉ có những định chế tài
chính trung gian cụ thể nào đó, hoạt động có hiệu quả mới có thể biến đổi được
chúng, ví dụ như rủi ro thị trường.
Biến đổi thời điểm đảo hạn và tạo khả năng thanh khoản
Chức năng quan trọng thứ hai của các định chế tài chính trung gian là
biến đổi thời điểm đáo hạn và khả năng thanh khoản. Yếu tố quan trọng để cho
các định chế tài chính trung gian có thể thực hiện được chức năng này, chính là
họ có khả năng nắm giữ các tích sản kém lưu hoạt (vì kỳ hạn thanh toán dài) so
với các tiêu sản mà họ phát hành, nhưng đồng thời họ vẫn duy trì được khả năng
thanh toán. Hơn thế nữa, nếu các định chế tài chính trung gian có ý định đứng
ra đảm nhận vai trò là con nợ chính trong các cam kết bảo lãnh, bằng cách mua
lại bất kỳ khoản nợ nào mà người cho vay trước đó muôn bán, tức hành vi mua nợ,
họ vẫn có thể tiến hành một cách dễ dàng. Bằng cách thiết kế thời điểm đáo hạn
thuộc tài sản có một cách hợp lý, các định chế tài chính trung gian cò quyền
khẳng định rằng, họ hoàn toàn có khả năng đáp ứng bất kỳ nhu cầu chi trả nào về
các khoản nợ mà họ đang nắm giữ.
Đọc thêm tại: