Sự can thiệp của ngân hàng trung ương.
Trong lịch sử hình thành phát triển của thị trường tài chính, thị
trường tiền tệ ra đời trước so với thị trường vốn, xuất phát từ nền kinh tế còn
kém phát triển và do vậy nhu cầu về vốn cũng như tiết kiệm trong dân cư chưa
cao, và chủ yếu là nhu cầu vốn ngắn hạn. Sau đó, cùng với sự phát triển kinh
tế, nhu cầu về các nguồn vốn dài hạn cho đầu tư tăng lên và từ đó, thị trường
vốn ra đời nhằm đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động được các nguồn vốn dài hạn,
bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính
phủ và một số các công ty còn thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành
các chứng khoán.
Chứng khoán là các công cụ thể hiện quyền sở hữu trong một công ty
(cổ phiếu); quyền chủ nợ đối với một công ty, một chính phủ hay một chính quyền
địa phương (trái phiếu); và các công cụ dẫn xuất khác hình thành trên cơ sở
những công cụ đã cỏ (công cụ phát sinh).
Khi các chứng khoán được phát hành thì tất yếu sẽ nảy sinh nhu cầu
về mua bán trao đổi chứng khoán đó. Chính vì vậy thị trường chứng khoán ra đời
với tư cách là một bộ phận của thị trường vốn, nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán,
trao đổi các loại chứng khoán.
Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành thị trường tài chính
Các bộ phận của thị trường tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau thể hiện trên một số nét như sau:
-
Thị trường tiền tệ (bao gồm cả thị trường hối đoái), và thị trường vốn đều là
những mắt xích trong một dây chuyền thuộc hệ thống tài chính quốc gia thống
nhất, và ngày càng mang tính quốc tế. Vì thế, những biến động trong nền kinh tế
tác động ban đầu đối với một thị trường riêng lẻ, sẽ dễ dàng lan truyền đến các
thị trường khác, trong toàn hệ thống. Một sự thay đổi lãi suất sẽ có hiệu ứng đối
với cả thị trường vốn ngắn hạn lẫn thị trường chứng khoán, hoặc việc thay đổi
tỷ giá hối đoái chắc chắn sẽ gây chấn động cho các dòng vốn cả ngắn hạn cũng
như dài hạn. Đặc tính này có thể được nhận thấy rõ nhất trong những thời kỳ
khủng hoảng của hệ thống tài chính – tiền tệ.
-
Theo đà phát triển của nền kinh tế, thị trường tài chính ngày càng trở nên tinh
vi, phức tạp; ranh giới truyền thông giữa các công cụ tài chính, hay giữa các
loại thị trường tài chính ngày càng mang tính tương đối. Các công cụ tài chính
được lưu thông trên thị trường đan xen với nhau và chuyển hóa lẫn nhau. Những
công cụ mới không ngừng ra đời, trong đó có nhiều loại công cụ hỗn hợp, có
những đặc tính vốn tồn tại tách rời nhau và đặc trưng cho những công cụ khác
nhau. Các bộ phận của thị trường tài chính, do đó, càng trở nên gắn bó chặt chẽ
với nhau.
Thị trường tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với việc khuyến
khích tiết kiệm, khuyến khích đầu tư và thúc đẩy quá trình vốn hóa trong nền
kinh tế. Đặc biệt ở đây phải kể đến vai trò của các định chế có khả năng
chuyển tải một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm sang đầu tư, và góp phần tích
cực trong việc thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn.
Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương (hay rộng hơn, các chính
sách tài chính – tiền tệ của chính phủ) được tác động thông qua thị trường tài
chính, nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tê. Tất cảnhững biện pháp, chính
sách tài chính và tiền tệ đều được vận hành thông qua các bộ phận của thị
trường tài chính, theo những phương thức khác nhau và đan xen nhau. Thị trường
tài chính càng phát triển ở trình độ cao, các kênh dẫn vốn càng nhiều
(do có nhiều loại hình trung gian tài chính cung cấp nhiều dịch vụ tài chính,
thông qua các công cụ tài chính ngày càng đa dạng) thì tính nhạy cảm với các
biện pháp, chính sách cũng càng cao.
Đọc thêm tại: